Đề bài: Phân tích bài
thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ông viết hay viết nhiều về con người, cuộc sống làng quê, về mùa thu. Bài thơ “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa.
Bốn câu đầu là những cảm nhận của tác
giả về sự biến chuyển của đất trời lúc vào thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Nhà thơ chợt nhận ra những dấu hiệu
thiên nhiên khi mùa thu về là hương ổi thoang thoảng thơm trong gió thu se
lạnh. Hai chữ “phả vào” vừa gợi cái bất chợt trong cảm nhận, vừa miêu tả được
hương ổi lan tỏa rộng trong không gian thu khiến cho khí thu trở nên ngọt ngào.
Hình ảnh mang nét đặc trưng của mùa thu là sương thu, từ láy “chùng chình” cùng
phép nhân hóa diễn tả sự vận động chậm rãi, dùng dằng, sương thu qua ngõ như cố
ý chậm chạp như mọi ngày. Câu thơ “Hình
như thu đã về” diễn tả tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến, có cái gì đó chưa
rõ ràng của con người trước thời điểm chuyển giao của vạn vật.
Từ những tín hiệu chuyển
mùa, nhà thơ nhận thấy sự thay đổi của không gian, đất trời:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Cảnh mùa thu hiện ra với
những hình ảnh quen thuộc : sông thu, cánh chim, đám mây mùa hạ. Sông mùa thu
chảy lững lờ, êm đềm, khoan thai, rất phù hợp với nhịp điệu của mùa thu. Chim
vội và bay đến những miền ấm áp hơn để tránh rét. Đặc biệt là hình ảnh đám mây
mang trên mình cả hai mùa: hạ - thu. Hình ảnh: “Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu.” Là hình ảnh đẹp được tạo
nên bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ. Động từ “vắt” gợi
hình tạo dáng khiến đám mây như một dải lụa mềm làm ranh giới của thời gian hạ
- thu. Sau những sự vật, hiện tượng khi chớm thu, nhà thơ chú ý đến những dấu
hiệu của thời tiết: nắng, mưa, sấm. Những tín hiệu ấy luôn được đặt trong sự so
sánh, đối chiếu với mùa hạ. Nắng vẫn còn nhưng không chói chang như mùa hạ. Mưa
đã vơi dần và đặc biệt không còn những trận mưa xối xả. Sấm không còn rền vang
như trước vì thế mà những hàng cậy không phải vật mình vì mưa bão, sấm chớp.
Tác giả sử dụng một loạt những cặp từ trái nghĩa: dềnh dàng và vội vã, vẫn còn
với vơi dần và bớt thể hiện sự dùng dằng, nửa đi nửa ở, nửa còn nửa mất, sự lưu
luyến của mùa hạ và bỡ ngỡ của mùa thu.
Từ
sự chuyển mùa, nhà thơ thể hiện suy ngẫm, triết lý của mình:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Hai
dòng thơ trên có 2 tầng ý nghĩa. Khi hàng cây đứng tuổi không còn bị bất ngờ vì
tiếng sấm. Ngoài ra còn có ý nghĩa sâu xa: Con người đã từng trải vững vàng hơn
trước những biến động của ngoại cảnh, của cuộc đời.
Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, xúc
tích, hình ảnh thơ giàu sức biểu cảm; sáng tạo trong sử dụng từ ngữ, cùng với
phép nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh mùa thu trong
khoảnh khắc giao mùa đẹp, tĩnh lặng, thơ mộng, ẩn sau bức tranh ấy là vẻ đẹp
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và những triết lí sâu sắc của nhà thơ về con người,
cuộc đời. Vì thế “Sang thu” đã để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh
Hải
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” được Thanh Hải sáng tác năm
1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha,
yêu mến và gắn bó với đất nước ,với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện
hiến dâng.
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá :
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá :
Mọc
giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho
nhỏ, thân quen , bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong
vị xứ Huế. Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm
thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng
sông xanh , “bông hoa tím , cách sử dụng các từ ngữ “ơi” ,“chi” đi liền sau
động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng
say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu
xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái
Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện,
khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được
miêu tả ở chi tiết rất tạo hình :
Từng
giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Tôi đưa tay tôi hứng.
Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang
ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc,
nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác
khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn
niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào
xuân.
Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân :
Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân :
Mùa
xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sỹ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận,theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràn , náo nức lan toả khắp tứ thơ :
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước :
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Hình ảnh so sánh đẹp : “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương.
Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng :
Ta làm con chim hót
Ta làm một canh hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến .
Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác :
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc .
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “ mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên,đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả.
Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết ,gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ .
Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả. Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:
“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình !”
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sỹ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận,theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràn , náo nức lan toả khắp tứ thơ :
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước :
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Hình ảnh so sánh đẹp : “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương.
Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng :
Ta làm con chim hót
Ta làm một canh hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến .
Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác :
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc .
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “ mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên,đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả.
Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết ,gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ .
Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả. Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:
“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình !”
HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ TRONG BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN PHƯƠNG
Nguyễn Thị
Xuân Đào
Sinh
thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam ,
ngày đêm thương nhớ miền Nam .
Với Bác, miền Nam là niềm
vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong
mỏi thiết tha của Bác là miền Nam
mau được giải phóng. Miền Nam
cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu.
Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam
sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của
đồng bào và chiến sĩ miền Nam
dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng
Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn
thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa
giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ
thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi
trong lòng nhân dân ta.
Bài
thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam , Viễn phương ra thăm Lăng Bác.
Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người
đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ,
Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ
giản dị: Con ở miềm Nam
ra thăm lăng Bác.
Tình
cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam
nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ
mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người
con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam …. Câu thơ
giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc,
Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu
tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ
đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình
ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:
Đã thấy trong
sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre
xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa
đứng thẳng hàng
Hàng
tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác
giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc
rằng, cũng như mọi người Việt Nam ,
trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó
với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc
nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là
hình ảnh miền Nam
yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua
phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì
độc lập tự do của dân tộc.
Hoà
vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào
một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt
trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng
người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa
dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai
đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn
Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời
trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt
trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi
con đường đi tới của dân tộc Việt Nam . Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình
ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai
hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ
thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình
ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ
đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói
lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam .
Cùng
với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp
thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm
một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu
dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật
sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng
người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày
ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm
nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc
biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn
ngào, đau đớn:
Bác nằm trong
giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng
trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời
xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói
ở trong tim
Bác
nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề
nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp:
vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền
diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu
trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả
khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà
thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng
sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”,
“trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm
đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác
như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ
đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ
nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác,
vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không
còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:
Mai về miền Nam , thương
trào nước mắt
Muốn làm con
chim hót quanh lăng
Muốn làm bông
hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre
trung hiếu chốn này.
Thương
Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như
tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong
tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ
Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta,
một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại
trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành
con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho
trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha,
cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc
động nghẹn ngào.
Bài
thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang
tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa,
đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng
sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình
tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn
gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi
sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng,
trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ.
Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh.
Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm
hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị,
gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy
sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp
của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.
Viếng
lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác,
là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương
và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng
Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn
chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ
được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim
Việt Nam
từ 1976 đến nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét